Số danh mục | RC-CF28 |
Bản tóm tắt | Phát hiện kháng thể IgG/IgM kháng Toxoplasma trong vòng 10 phút |
Nguyên tắc | Xét nghiệm sắc ký miễn dịch một bước |
Mục tiêu phát hiện | Kháng thể IgG/IgM Toxoplasma |
Vật mẫu | Máu toàn phần, huyết tương hoặc huyết thanh của mèo |
Thời gian đọc | 10 ~ 15 phút |
Độ nhạy | IgG: 97,0% so với IFA, IgM: 100,0% so với IFA |
Tính đặc hiệu | IgG: 96,0% so với IFA, IgM: 98,0% so với IFA |
Số lượng | 1 hộp (bộ) = 10 thiết bị (Đóng gói riêng lẻ) |
Nội dung | Bộ dụng cụ thử nghiệm, chai đệm và ống nhỏ giọt dùng một lần |
Kho | Nhiệt độ phòng (ở 2 ~ 30℃) |
Hết hạn | 24 tháng sau khi sản xuất |
Thận trọng | Sử dụng trong vòng 10 phút sau khi mởSử dụng lượng mẫu thích hợp (0,01 ml ống nhỏ giọt) Sử dụng sau 15~30 phút ở nhiệt độ phòng nếu bảo quản ở nhiệt độ lạnh Xem xét kết quả thử nghiệm là không hợp lệ sau 10 phút |
Bệnh toxoplasma là một căn bệnh do một loại ký sinh trùng đơn bào có tên là Toxoplasma gondii (T.gondii) gây ra. Bệnh toxoplasma là một trong những bệnh ký sinh trùng phổ biến nhất và được tìm thấy ở hầu hết các loài động vật máu nóng, bao gồm cả vật nuôi và con người. Mèo đóng vai trò quan trọng trong dịch tễ học của T. gondii vì chúng là vật chủ duy nhất có thể bài tiết các nang bào kháng với môi trường. Hầu hết mèo bị nhiễm T.gondii sẽ không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào. Tuy nhiên, đôi khi, bệnh toxoplasma lâm sàng cũng xảy ra. Khi bệnh xảy ra, bệnh có thể phát triển khi phản ứng miễn dịch của mèo không đủ để ngăn chặn sự lây lan của các dạng tachyzoite. Bệnh có nhiều khả năng xảy ra ở những con mèo có hệ thống miễn dịch bị ức chế, bao gồm cả mèo con và mèo mắc vi-rút gây bệnh bạch cầu ở mèo (FELV) hoặc vi-rút gây suy giảm miễn dịch ở mèo (FIV).
Mèo là vật chủ chính duy nhất của T.gondii; chúng là loài động vật có vú duy nhất mà Toxoplasma được truyền qua phân. Ở mèo, dạng sinh sản của T.gondii sống trong ruột và các nang trứng (dạng chưa trưởng thành giống trứng) thoát khỏi cơ thể qua phân. Các nang trứng phải ở trong môi trường từ 1-5 ngày trước khi chúng gây nhiễm trùng. Mèo chỉ thải T.gondii qua phân trong vài tuần sau khi bị nhiễm trùng. Các nang trứng có thể sống sót trong môi trường trong nhiều năm và kháng lại hầu hết các chất khử trùng.
Các nang bào tử được các vật chủ trung gian như động vật gặm nhấm và chim, hoặc các động vật khác như chó và người ăn vào và di chuyển đến cơ và não. Khi một con mèo ăn một con mồi trung gian bị nhiễm bệnh (hoặc một phần củamột loài động vật lớn hơn, ví dụ như lợn), ký sinh trùng được giải phóng vào ruột mèo và vòng đời có thể được lặp lại
Các triệu chứng phổ biến nhất củaBệnh toxoplasma bao gồm sốt, chán ăn và lờ đờ. Các triệu chứng khác có thể xảy ra tùy thuộc vào việc nhiễm trùng là cấp tính hay mãn tính và vị trí ký sinh trùng được tìm thấy trong cơ thể. Ở phổi, nhiễm trùng T.gondii có thể dẫn đến viêm phổi, gây ra tình trạng suy hô hấp với mức độ nghiêm trọng tăng dần. Bệnh toxoplasma cũng có thể ảnh hưởng đến mắt và hệ thần kinh trung ương, gây viêm võng mạc hoặc buồng mắt trước, kích thước đồng tử bất thường và phản ứng với ánh sáng, mù lòa, mất phối hợp, tăng độ nhạy cảm với xúc giác, thay đổi tính cách, đi vòng tròn, ấn đầu, giật tai, khó nhai và nuốt thức ăn, co giật và mất kiểm soát khi đi tiểu và đại tiện.
Bệnh toxoplasma thường được chẩn đoán dựa trên tiền sử, dấu hiệu bệnh và kết quả xét nghiệm hỗ trợ. Đo kháng thể IgG và IgM đối với Toxoplasma gondii trong máu có thể giúp chẩn đoán bệnh toxoplasma. Sự hiện diện của kháng thể IgG đáng kể đối với T.gondii ở mèo khỏe mạnh cho thấy mèo đã từng bị nhiễm bệnh trước đó và hiện tại rất có thể đã miễn dịch và không bài tiết nang bào tử. Tuy nhiên, sự hiện diện của kháng thể IgM đáng kể đối với T.gondii cho thấy mèo đang bị nhiễm trùng hoạt động. Sự vắng mặt của kháng thể T.gondii của cả hai loại ở mèo khỏe mạnh cho thấy mèo dễ bị nhiễm trùng và do đó sẽ thải nang bào tử trong một đến hai tuần sau khi nhiễm trùng.
Hiện tại vẫn chưa có vắc-xin nào có thể ngăn ngừa nhiễm trùng T.gondii hoặc bệnh toxoplasma ở mèo, người hoặc các loài khác. Do đó, phương pháp điều trị thường bao gồm một đợt dùng thuốc kháng sinh gọi là clindamycin. Các loại thuốc khác được sử dụng bao gồm pyrimethamine và sulfadiazine, có tác dụng cùng nhau để ức chế sự sinh sản của T.gondii. Việc điều trị phải được bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi chẩn đoán và tiếp tục trong vài ngày sau khi các dấu hiệu đã biến mất.
Nhiễm trùng cấp tính được đặc trưng bởi sự gia tăng nhanh chóng của kháng thể IgM, tiếp theo là sự gia tăng của kháng thể lớp IgG trong 3-4 tuần. Nồng độ kháng thể IgM đạt đỉnh khoảng 3-4 tuần sau khi khởi phát triệu chứng và duy trì trong vòng 2-4 tháng. Kháng thể lớp IgG đạt đỉnh trong vòng 7-12 tuần, nhưng giảm chậm hơn nhiều so với nồng độ kháng thể IgM và duy trì ở mức cao trong hơn 9-12 tháng.