Bộ xét nghiệm nhanh bệnh viêm túi Bursal truyền nhiễm ở gia cầm | |
Bản tóm tắt | Phát hiện kháng nguyên đặc hiệu của bệnh viêm túi Bursal truyền nhiễm ở gia cầm trong vòng 15 phút |
Nguyên tắc | Xét nghiệm sắc ký miễn dịch một bước |
Mục tiêu phát hiện | Kháng nguyên bệnh Bursal truyền nhiễm ở gia cầm |
Vật mẫu | Gà Bursa |
Thời gian đọc | 10~15 phút |
Số lượng | 1 hộp (bộ) = 10 thiết bị (Đóng gói riêng lẻ) |
Nội dung | Bộ dụng cụ thử nghiệm, chai đệm, ống nhỏ giọt dùng một lần và tăm bông |
Thận trọng | Sử dụng trong vòng 10 phút sau khi mở Sử dụng lượng mẫu thích hợp (0,1 ml ống nhỏ giọt) Sử dụng sau 15~30 phút ở nhiệt độ phòng nếu bảo quản ở nhiệt độ lạnh Xem xét kết quả thử nghiệm là không hợp lệ sau 10 phút |
Bệnh viêm túi hoạt dịch (Bệnh viêm ruột), còn được gọi làBệnh Gumboro,viêm bao hoạt dịch truyền nhiễm Vàbệnh hoại tử ở chim truyền nhiễm, là một căn bệnh truyền nhiễm rất cao ở trẻ emgà và gà tây bị gây ra bởi virus gây bệnh viêm túi bursal truyền nhiễm (IBDV),[1] được đặc trưng bởiức chế miễn dịch và tỷ lệ tử vong thường ở độ tuổi từ 3 đến 6 tuần. Bệnh này lần đầu tiên được phát hiện vàoGumboro, Delaware vào năm 1962. Nó có tầm quan trọng về mặt kinh tế đối với ngành công nghiệp gia cầm trên toàn thế giới do dễ mắc các bệnh khác và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quảtiêm chủng. Trong những năm gần đây, các chủng IBDV cực độc (vvIBDV), gây tử vong nghiêm trọng ở gà, đã xuất hiện ở Châu Âu,Châu Mỹ La Tinh,Đông Nam Á, Châu Phi vàTrung Đông. Nhiễm trùng qua đường miệng-phân, với gia cầm bị ảnh hưởng bài tiết lượng lớn vi-rút trong khoảng 2 tuần sau khi bị nhiễm. Bệnh dễ dàng lây lan từ gà bị nhiễm sang gà khỏe mạnh qua thức ăn, nước và tiếp xúc vật lý.
Bệnh có thể xuất hiện đột ngột và tỷ lệ mắc bệnh thường lên tới 100%. Ở dạng cấp tính, chim bị suy nhược, suy nhược và mất nước. Chúng bị tiêu chảy phân nước và có thể bị sưng lỗ đít nhuộm phân. Hầu hết đàn nằm ngửa và có lông xù. Tỷ lệ tử vong thay đổi tùy theo độc lực của chủng liên quan, liều thử thách, khả năng miễn dịch trước đó, sự hiện diện của bệnh đồng thời, cũng như khả năng tạo ra phản ứng miễn dịch hiệu quả của đàn. Ức chế miễn dịch ở gà rất nhỏ, dưới ba tuần tuổi, có thể là kết quả quan trọng nhất và có thể không phát hiện được trên lâm sàng (dưới lâm sàng). Ngoài ra, nhiễm trùng với các chủng ít độc lực hơn có thể không biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng rõ ràng, nhưng những con chim bị teo túi hoạt dịch với nang xơ hoặc nang và giảm bạch cầu lympho trước sáu tuần tuổi có thể dễ bịnhiễm trùng cơ hộivà có thể chết do nhiễm trùng bởi các tác nhân thường không gây bệnh ở những loài chim có hệ miễn dịch bình thường.
Gà bị nhiễm bệnh thường có các triệu chứng sau: mổ gà khác, sốt cao, lông xù, run rẩy và đi chậm, nằm thành từng đàn với đầu cúi xuống đất, tiêu chảy, phân vàng và có bọt, khó bài tiết, ăn ít hoặc chán ăn.
Tỷ lệ tử vong khoảng 20% với tử vong trong vòng 3–4 ngày. Thời gian phục hồi cho những người sống sót mất khoảng 7–8 ngày.
Sự hiện diện của kháng thể mẹ (kháng thể được truyền từ mẹ sang gà con) làm thay đổi quá trình tiến triển của bệnh. Các chủng virus đặc biệt nguy hiểm với tỷ lệ tử vong cao lần đầu tiên được phát hiện ở Châu Âu; các chủng này chưa được phát hiện ở Úc.[5]